DiscoverTạp chí Việt NamXâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?
Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

Update: 2025-09-01
Share

Description

Nằm ở vùng cực nam Việt Nam, là khu vực then chốt về sản xuất nông nghiệp của đất nước, nhất là lúa gạo, trái cây và thủy sản, nhưng những năm gần đây đồng bằng sông Cửu Long (châu thổ sông Mekong), đã phải chuyển đổi nông nghiêp để thích nghi với tình hình nước mặt và đất bị mặn xâm nhập.

Đây cũng là giai đoạn đồng bằng sông Cửu Long phải tìm hướng biến nước mặn từ là kẻ thù phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế, thành nguồn tài nguyên để khai thác, trong bối cảnh nhiều nơi không còn phù hợp để trồng lúa.

RFI tiếng Việt phỏng vấn tiến sĩ Dương Văn Ni, Khoa Môi trường và Quản lý tài nguyên thiên nhiên, đại học Cần Thơ và Quỹ bảo tồn đồng bằng sông Cửu Long.

RFI tiếng Việt : Tác hại của tình trạng mặn đối với sản xuất lúa ở đồng bằng sông Cửu Long, vựa lúa của Việt Nam, hiện nay như thế nào ?

Tiến sĩ Dương Văn Ni : Thật ra diện tích canh tác lúa thì có giảm, bởi vì những vùng ven biển duyên hải đó hiện nay thì gần như không còn phù hợp cho chuyện trồng lúa, nên tổng diện tích về canh tác lúa có giảm. Nhưng mà tổng sản lượng lúa cho cả đồng bằng sông Cửu Long thì không giảm nhiều, bởi vì những vùng mà trước đây chúng ta lấn ra ngoài biển để cố canh tác lúa thì không phải là những vùng trọng điểm để sản xuất lúa, năng xuất lúa cũng không cao, nên không ảnh hưởng lớn đến tổng sản lượng lúa của cả đồng bằng sông Cửu Long.

RFI tiếng Việt : Đài báo phương Tây thường khi nói đến tình trạng mặn ở đồng bằng sông Cửu Long thì thường nói đến thiệt hại hay là ảnh hưởng, tác động đối với sản xuất lúa nước của Việt Nam, và họ cho rằng có rất nhiều tác hại, nhưng theo như tiến sĩ vừa nói thì những tác hại đối với ngành trồng lúa nước là không quá đáng kể …

Tiến sĩ Dương Văn Ni : Tôi muốn lưu ý thứ nhất là thường thường người ta đưa tin theo một xu thế. Ví dụ như nói rằng 2/3 đồng bằng sông Cửu Long này sẽ chìm dưới mực nước biển trong 100 năm tới. Tất cả những chuyện này dựa trên cơ sở dữ liệu trong quá khứ và sử dụng các mô hình toán để dự đoán cho tương lai. Về mặt khoa học không có gì sai, nhưng mà về mặt thực tiển thì chúng ta thấy rõ ràng là chuyện đó còn tùy thuộc vào một yếu tố nữa, đó là sự điều chỉnh của con người, điều chỉnh từ chính sách cho đến điều chỉnh loại cây trồng vật nuôi của người dân. Cái này cần phải được tính tới và thường thường trong những mô hình hay là trong những kế hoạch thì chúng ta không tính tới những chuyện này.

Thành thử nói là 100 năm nữa 2/3 đồng bằng này chìm dưới mặt nước biển chỉ là một giả định. Từ giả định đó người ta mới suy ngược lại là 2/3 diện tích mà chìm dưới mực nước biển thì đâu còn bao nhiêu diện tích để trồng lúa nữa. Nhưng mà trong thực tế chúng ta thấy rõ ràng, ví dụ như năm 2015-2016, thiệt hại về lúa do mặn xâm nhập bất chợt mà người ta không biết trước thì thiệt hại khoảng nửa triệu ha. Trong 500.000 hecta đó thì thiệt hại lúa rất là nặng nề, bởi vì người ta không có tinh thần chuẩn bị, bấy lâu nay người ta thấy rằng đầy đủ nước mưa, đầy đủ nước ngọt, do đó người ta cứ tiếp tục trồng lúa nhưng mà đùng một cái mặn nó lên nhiều quá, người ta trở tay không kịp.

Nhưng mà rõ ràng là từ những năm 2016 đến nay, và cụ thể nhất là giai đoạn 2020-2022 mặn không thua gì những năm 2015-2016, nhưng mà thiệt hại về lúa gần như không đáng kể nữa, bởi vì người dân ta đã có kinh nghiệm rồi. Và chính quyền địa phương và các ngành chức năng người ta cũng thấy rằng không nên ép người dân phải trồng lúa vào những vùng không phù hợp để trồng lúa nữa.

Thế nên tôi cho rằng sự điều chỉnh của con người kịp thời là sẽ giúp giảm các tác hại đó. Mình không nên suy diễn rằng 2/3 diện tích đồng bằng này chìm dưới mực nước biển thì sản lượng lúa sẽ giảm 2/3 tương ứng. Cái đó thì thật ra không đúng.

RFI tiếng Việt : Vậy nông dân trồng lúa của đồng bằng sông Cửu Long hiện nay thích nghi với tình trạng mặn như thế nào ?

Tiến sĩ Dương Văn Ni : Đối với người dân sống ven theo biển thì chúng ta cần chia ra làm ba giai đoạn. Dễ thấy nhất là giai đoạn từ năm 1975 cho đến khoảng năm 1990. Trong giai đoạn này, người ta cố gắng trồng lúa bằng mọi giá để có nguồn lương thực. Trồng lúa không tính lời lỗ, mà trồng lúa như là một nhu cầu bắt buộc để có cái ăn. Còn từ năm 1990 tới về sau này đó, đặc biệt là từ giai đoạn 1990-2015 thì người ta bắt đầu biết tính lời lỗ, có nghĩa là trồng cây lúa như thế nào để cho có lời.

Sau hạn mặn khốc liệt của năm 2015 - 2016, thì nhiều diện tích được đánh giá là không còn khả năng sản xuất lúa có hiệu quả kinh tế nữa, nên người dân không trồng lúa nữa và chuyển qua cây trồng vật nuôi khác thích nghi với mặn hơn.

Sau năm 2016 cho đến nay thì đối với những diện tích mà người dân cảm thấy là trồng lúa không có lời nữa thì người ta cố trồng lúa nữa. Nhìn chung, về chuyện thích nghi đó, thì có thất bại, có trả giá thì mới có bài học, và người dân mình đã có những cái bài học như vậy. Do đó, người ta biết được những chỗ nào nên làm và chỗ nào không không nên làm nữa.

Thứ hai nữa là trong những năm gần đây, so với những mặt hàng khác thì giá gạo không tăng và thậm chí còn có xu hướng giảm, làm cho hiệu quả kinh tế của việc trồng lúa lại càng thấp hơn so với những hoạt động sản xuất khác, góp phần khiến người ta cân nhắc chuyện tiếp tục trồng lúa trên mảnh đất của mình hay là phải đổi cây trồng vật nuôi khác.

RFI tiếng Việt : Vậy chủ trương của nhà nước hiện nay ra sao ?

Tiến sĩ Dương Văn Ni : Về chủ trương thì đó là một định hướng lâu dài của nhà nước. Tôi muốn nêu 2 mốc thời gian hết sức quan trọng. Thứ nhất là năm 2017, nghị quyết 120 ra đời, rất nhiều người gọi đây là một nghị quyết thuận thiên.

Lý do là lần đầu tiên trong lịch sử ở trong văn bản được ghi một cách rất là cụ thể là coi nước mặn, nước lợ và nước lũ đều là tài nguyên. Còn trước đó, đối với đồng bằng và đối nền sản xuất của mình, thậm chí trong tất cả những chính sách của mình thì nước mặn hay là nước lũ đều là kẻ thù, phải tìm mọi cách để ngăn chặn, khống chế.

Cái quan trọng thứ hai là từ cái khái niệm đó, mình đã có một bản đồ quy hoạch tích hợp về phát triển đồng bằng sông Cửu Long từ đây cho tới năm 2050 để thích nghi với biến đổi khí hậu. Và trong bản đồ tích hợp đó, lần đầu tiên chúng ta áp dụng luật quy hoạch để hoạch định ra một chính sách dài hạn cho chuyện sử dụng đất đai ở đồng bằng sông Cửu Long. Trước đó, chúng ta có nhiều quy hoạch mà phần lớn là quy hoạch nhỏ lẻ theo địa phương, hoặc là quy hoạch theo ngành, hoặc là quy hoạch theo vùng, theo lãnh vực, nhưng không tích hợp tất cả mục tiêu lại với nhau.

Trong quy hoạch tích hợp đó, người ta chia đồng bằng này theo 3 vùng dựa vào chất lượng nước. Vùng thứ nhất là vùng nước mặn, ưu tiên cho những sản xuất phù hợp với nước mặn. Vùng thứ hai là vùng nước lợ, có đặc điểm là trong mùa mưa có thể có nước ngọt, và trong mùa nắng có thể có nước mặn, nên chúng ta chọn cây trồng vật nuôi phù hợp với điều kiện như vậy. Và vùng thứ 3 là vùng nước ngọt. Đây là vùng trọng điểm để sản xuất lúa hay lương thực.

Tôi nghĩ rằng về mặt pháp lý thì nhà nước đã định hình rất rõ và có một định hướng từ đây tới năm 2050 cũng rất cụ thể cho các vùng miền. Vấn đề còn lại là làm thế nào để người dân và chính quyền địa phương, ở những cấp thấp nhất, ví dụ cấp xã cấp huyện, tiếp cận được với những khái niệm khoa học hoặc những chính sách được hỗ trợ đó, để người ta biết vận dụng cái đó vào trong sản xuất và quản lý. Tôi cho rằng đó mới là vấn đề quan trọng. Có một nghị quyết rất là hay hoặc là một bản đồ quy hoạch rất là tốt, nhưng không đi vào thực hiện được thì nó cũng không có giá trị gì.

RFI tiếng Việt : Đối với những vùng bị mặn đó, theo tiến sĩ thì đâu là những loại vật nuôi hay cây trồng phù hợp hơn để thay cho cây lúa ?

Tiến sĩ Dương Văn Ni : Chuyện chọn cây trồng vật nuôi phù hợp cho vùng mặn như thế nào thì chúng ta phải hoàn toàn tính toán từ góc độ thị trường và góc độ người sử dụng. Chẳng hạn như trong 5 năm vừa qua, chúng tôi có làm một chương trình là đầu tiên chọn vùng đất không còn khả năng để trồng lúa nữa bởi vì muối đã tích lũy trong đất quá nhiều rồi, chúng tôi chọn một vài loại cây phù hợp cho vùng đất này. Cụ thể là chúng tôi chọn loại cỏ mọc rất là nhiều trước đây, trước khi đồng bằng được khẩn quang để chuyển sang trồng lúa hay nuôi tôm. Khi chuyển qua trồng lúa, nuôi tôm, người ta diệt hết loại cỏ đó. Chúng tôi đem loại cỏ đó phục hồi và trồng lại, cây đó tiếng địa phương ta kêu là cây năn tượng.

Ngoài chuyện cải tạo đất, cải tạo môi trường thì chúng tôi sử dụng nguyên liệu từ loại cỏ đó để phát triển những ngành hàng về thủ công mỹ nghệ, giúp cho những người dân địa phương có được công ăn việc làm tại nhà. Người ta có được nguồn nguyên liệu tại chỗ và người ta bán được sản rồi mua lại gạo để ăn. Và điều này đó chắc chắn hơn rất là nhiều so với chuyện trồng lúa.

Trồng lúa bấp bênh, có thể là năm trúng năm thất, mặc dù trồng lúa nhưng mà lại có những năm không đủ gạo ăn. Nhưng mà bây giờ trồng cỏ thì lại luôn có gạo ăn. Như vậy rõ ràng chuyện mà bấy lâu nay chính sách gọi là an ninh lương thực của chúng ta chỉ chăm chăm vào chuyện phát triển diện tích trồng lúa, nhưng rõ ràng lương thực không phải chỉ có lúa gạo. Lương thực có nhiều cách làm và có nhiều con đường để chúng ta có đủ lúa gạo mà ăn chứ không phải lúc nào cũng phải trồng lúa mới có gạo mà ăn.

RFI tiếng Việt : Như tiến sĩ vừa mới nói, thì nước mặn, nước lợ hay nước lũ hoàn toàn có thể là tài nguyên. Vậy thì trong những năm vừa qua, để thích ứng với tình hình biến đổi khí hậu thì Việt Nam và cụ thể là đồng bằng sông Cửu Long đã có những hành động, những chương trình cụ thể gì để biến nướ

Comments 
In Channel
loading
00:00
00:00
x

0.5x

0.8x

1.0x

1.25x

1.5x

2.0x

3.0x

Sleep Timer

Off

End of Episode

5 Minutes

10 Minutes

15 Minutes

30 Minutes

45 Minutes

60 Minutes

120 Minutes

Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

Xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long : Nước mặn từ kẻ thù của nhà nông có thể thành tài nguyên ?

RFI Tiếng Việt